Kiến thức Chu Nguyên Chương xuống chiếu bắt Chăm Pa không được gây chiến Đại Việt, cứu Đại Việt khỏi hoạ xâm lăng

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Nội bộ nhà Trần rối loạn, hoàng tử Trần Phủ lật đổ Dương Nhật Lễ (tên khác là Trần Nhật Kiên) rồi lên ngôi vua, niên hiệu là Nghệ Tông.

Mẹ của Nhật Lễ trốn sang nước Chiêm nhờ Chế Bồng Nga tiến đánh nhà Trần nhằm trả thù. Chế Bồng Nga cho quân theo đường thủy đánh cửa Đại An, quân Trần đại bại, quân Chiêm tiến thẳng vào Thăng Long rất dễ dàng. Cuốn “Việt Nam sử lược” mô tả quân Chiêm chiếm Thăng Long như “như đi vào chỗ không người”. Vua Nghệ Tông phải trốn khỏi kinh thành.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 2.

Quân Chiêm tấn công Thăng Long. (Tranh từ Pháp Luật VN)

Quân Chiêm tha hồ cướp bóc vơ vét kinh thành, đốt cung điện, sách vở.


Dưới thời nhà Trần, Chiêm Thành từng phải thần phục và cống nạp cho Đại Việt. Thế nhưng khi vua Chiêm là Chế Bồng Nga lên ngôi, nhà Trần bắt đầu suy yếu, Chế Bồng Nga nhiều lần đưa quân tiến đánh khiến nhà Trần phải thảm bại tháo chạy khỏi thành Thăng Long. Các sử sách còn mô tả rằng quân Chiêm vào Thăng Long như chỗ không người, vua tôi nhà Trần đều sợ quân Chiêm như sợ cọp.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 1.

Triều đình Chiêm Thành. Ảnh cắt từ clip.

Sau khi lên ngôi Vua, Chế Bồng Nga nhận thấy nhà Trần không còn hùng mạnh như trước nữa. Nguyên nhân chính là vì các vua Trần đời sau nhu nhược, mất mùa liên miên, sức sản xuất của người dân suy giảm, vua quan ham mê tửu sắc, đánh sưu cao thuế nặng, sống xa hoa trên sự đói khổ của người dân... Vì thế thời điểm này xã hội dưới thời nhà Trần rất bất ổn.

Năm 1361, Chế Bồng Nga đưa quân theo đường biển đánh cửa biển Dĩ Lý (Quảng Bình ngày nay), quân nhà Trần thua chạy, quân Chiêm cướp phá tàn sát dân chúng rồi quay trở về. Sau đó quân Chiêm nhiều lần quấy phá nơi biên giới.

Năm 1368, vua Trần Dụ Tông quyết định đưa quân đánh Chiêm Thành, nhưng khi đến vùng Chiêm Động (Quảng Nam ngày nay) thì bị trúng kế rơi vào trận phục kích của quân Chiêm và đại bại. Tướng chỉ huy là Trần Thế Hưng bị bắt, tàn quân phải rút chạy về nước
Khi vua nhà Minh là Chu Nguyên Chương xuống chiếu bắt 2 nước không được gây chiến, quân Chiêm mới rút về nước mang theo nhiều báu vật cướp được.

"Ngày mồng 1 tháng Chạp năm Hồng Vũ thứ 2 [30/12/1369]: Sai Hàn lâm Viện Biên tu La Phục Nhân, Chủ sự Bộ binh Trương Phúc mang chiếu thư dụ An Nam [11] và Chiêm Thành rằng:

“Trẫm vốn xuất thân từ bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được thần dân tôn lên làm vua trị thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly, rồi Chiêm Thành; tất cả đều dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến Trẫm rất vui lòng.

Mới đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô đến cống, tâu rằng An Nam mang binh đến xâm nhiễu, Trẫm xem tờ trình tâm không được yên. Nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã định sẵn, đó là ý trời không thể cậy mạnh mà làm càn. Huống đất đai các ngươi, cách Trung Quốc hết núi đến biển, lời nói về sự xâm nhiễu nhất thời khó mà biết được để trình bày rõ ràng cho Trẫm hay. Các ngươi được truyền đời nối đời đã lâu, việc giữ đất an dân, trên phụng theo đạo trời, tôn kính Trung Quốc; những việc này Vương trước của các ngươi chắc đã để lại lời dạy bảo, không đợi Trẫm dụ mới biết. Trẫm làm chủ thiên hạ, việc đáng làm là trị loạn dẹp nguy; nay sai sứ đi quan sát sự việc, hiểu dụ các ngươi phải sợ trời, thủ phận. Nếu như cả hai dùng binh, năm này qua năm khác không ngừng, làm độc hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh sẽ không bằng lòng; e rằng trên thì trời ghét, dưới thì lòng dân oán hận, mối họa sẽ không tránh được. Vương hai nước hãy nghe lời Trẫm, tuân theo đạo lý, yên phận mình, để con cháu các ngươi được hưởng phúc lâu bền, há lại không tốt đẹp hơn ư! Khi chiếu thư tới, hai nước hãy tuân mệnh bãi binh.” (Minh Thực lục v. 3, q. 47, t. 0934-0935)"

Tình trạng quân Champa quấy phá tại Đại Việt khá trầm trọng và lâu dài, đến nỗi bọn Sứ thần nhà Minh mượn đường nước ta đi sứ Miến Điện [Myanma], phải kẹt lại đến 2 năm trời:

Ngày 18 tháng Một nhuận năm Hồng Vũ thứ 6 [1/1/1374]
Bọn Điền Nghiễm đi sứ nước Miến nhưng không đến nơi, bèn trở về.
Nước Miến tại vùng tây nam Vân Nam; giáp giới với nước Bát Bách [18] và nước Chiêm Thành, còn được gọi là Miến Điện. Đời Nguyên rất thịnh, sau khi bình Thịnh Lộc Xuyên [19] , nước Miến bèn phụ thuộc.
Thiên tử nghe rằng nước này từng nạp cống cho nhà Nguyên, nên sai Điền Nghiễm, cùng Trình Đẩu Nam, Trương Vỉ, Tiền Cửu Cung mang chiếu thư đi sứ. Bọn Nghiễm đến An Nam, gặp lúc Chiêm Thành mang binh đến tấn công, đường trở ngại không lưu thông, phải lưu lại 2 năm tại đây, không tiến được. Ban chiếu gọi trở về, chỉ con Nghiễm về được còn những người khác chết trên đường. (Minh Thực lục v. 4, q. 1534)

Năm 1376, Chế Bồng Nga xem nhà Minh như cái đinh rỉ, lại đưa quân bắc tiến, vua Trần Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đưa quân đi đánh (lúc này vua Trần Nghệ Tông đã lên ngôi Thượng Hoàng). Chế Bồng Nga cho người dâng 10 mâm vàng xin giảng hòa, thế nhưng Đỗ Tử Bình dấu vàng rồi tâu về triều là Vua Chiêm ngạo mạn không thần phục. Vua Trần nổi giận, tháng 1/1077 liền đưa quân nam tiến.

Vua Trần đích thân đưa quân theo đường biển tiến đến cửa Thi Nại (Quy Nhơn) đánh chiếm đồn Thạch Kiều, rồi đưa quân tiến đến kinh thành Đồ Bàn của nước Chiêm.

Chế Bồng Nga cho người chạy sang nhà Trần trá hàng, rồi tung tin là Chế Bồng Nga đã rút quân chủ lực khỏi kinh thành rồi. Vua Trần mắc mưu liền cho quân ung dung tiến vào thành thì bất ngờ bị phục binh quân Chiêm bốn bề đổ ra tiến đánh, quân Trần bị chia cắt và đại bại, 10 phần thì chết 7,8 phần. Vua Trần bị vây khốn trúng phải tên mà tử trận. Quân Chiêm đuổi quân nhà Trần đến tận vùng Thanh – Nghệ.

Tháng 6/1378, Chế Bồng Nga đưa quân vượt sông Đại Hoàng đánh tan quân của Đỗ Tử Bình, rồi đưa quân đánh chiếm Thăng Long. Thượng Hoàng Nghệ Tông lại phải chạy khỏi Thăng Long, đem vàng bạc châu báu dấu ở núi Thiên Kiến và động Khả Lăng.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 3.

Thành Đồ Bàn. (Ảnh từ Youtube).

Năm 1380, Chế Bồng Nga tuyển binh ở Tân Bình và Thuận Hóa, rồi sau đó đem quân đánh chiếm Nghệ An. Hồ Quý Ly và Đỗ Tử Bình đưa quân chặn lại. Chế Bồng Nga phải dừng tiến quân nhưng châu Nghệ An, Thuận Hóa, Tân Bình vẫn thuộc về người Chăm.

Năm 1383, Chế Bồng Nga lại đưa quân bắc phạt chiếm giữ kinh thành Thăng Long. Lê Quý Đôn mô tả rằng: “vua (Chế Bồng Nga) ra vào Việt Nam như đi vào chỗ không người, chỉ trong mấy năm đến phá kinh đô 3 lần, làm cho vua tôi phải kinh hoàng” .

Quân Chiêm nhiều lần chiếm kinh thành Thăng Long, cướp báu vật rồi đem cống nạp cho nhà Minh, vì thế mà vua Minh cho Chiêm Thành đánh Đại Việt không có ý kiến gì.

Năm 1386, quân Minh thông báo sẽ đem quân giúp Đại Việt đánh Chiêm Thành, và yêu cầu Đại Việt chuẩn bị các trạm lương thực suốt từ biên giới với Vân Nam đến Nghệ An, cùng 100 thớt voi. Tuy nhiên nhà Trần đã từ chối vì e rằng quân Minh nhân cơ hội này sẽ thôn tính mẹ nó Đại Việt luôn!

Năm 1389, Chế Bồng Nga lại cho quân tiến đánh nhà Trần, thượng hoàng Nghệ Tông sai Hồ Qúy Ly đưa quân giao chiến với quân Chiêm.

Chế Bồng Nga ở thượng nguồn sông Lương, cho đắp đập ngăn sông phía thượng lưu, cho đóng cọc dày, bố trí tượng binh và bộ binh mai phục, rồi vờ rút quân đi.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 4.

Thành Thăng Long. (Ảnh từ quehuongonline.vn).

Hồ Quý Ly tưởng quân Chiêm rút lui liền đem quân truy kích, nào ngờ bị trúng phải trận địa mai phục của quân Chiêm. Chế Bồng Nga cho phá đập nước khiến quân Trần bị thiệt hại nặng nề, nhiều tướng bị bắt sống hoặc tử trận. Hồ Quý Ly để một số tướng ở lại cầm cự còn thì rút về kinh thành. Tuy nhiên quân Trần ở lại cũng không cầm cự được và phải rút lui, Chế Bồng Nga đuổi theo đến Hoàng Giang.

Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai đô tướng là Trần Khát Chân đưa quân ngăn quân Chiêm. Trần Khát Chân đến sông Hoàng Giang nhưng nhận thấy nơi đây không đóng quân được nên đưa quân đến sông Hải Triều.

Tháng 1/1390, Chế Bồng Nga đưa hơn 100 chiến thuyền thị sát sông Hải Triều. Không may cho Chế Bồng Nga, một tùy tướng của ông ta là Bỉ Lậu Kê vì sợ phạt tội nên ra hàng Trần Khát Chân, đồng thời báo cho biết thuyền ngự của vua Chiêm sơn màu xanh lục.

Trần Khát Chân liền cho các hỏa pháo tập trung vào thuyền Vua Chiêm mà bắn, Chế Bồng Nga bị trúng đạn mà chết.

Sử gia Ngô Thì Sĩ mô tả rằng khi tướng Phạm Như Lạt đưa đầu của Chế Bồng Nga đến trình báo thượng hoàng Trần Nghệ Tông vào giữa canh ba, Nghệ Tông hoảng hồn tưởng mình đang bị vây bắt. Nghe tin thắng trận Nghệ Tông nửa tin nửa ngờ liền cho triệu tập các quan để xem cho kỹ. Các quan mặc triều phục, đến và hô “vạn tuế!”, lúc này Nghệ Tông mới yên tâm mà nói: “Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi!”.
Chế Bồng Nga - Cei Bunga (1360- 23/1/1390), Jaya R'Cam B'nga (Zainal Abidin là vị vua Islam - Hồi giáo) theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trong tài liệu Trung Hoa ngài có tên: Ngo-ta-Ngo-che là tên hiệu của vua thứ ba thuộc vương triều thứ 12 Vijaya.

Chế Bồng Nga là con trai út của vua Chế A Nan (Jaya Ananda). Sau khi Chế A Nan qua đời, con rể là Trà Hòa (Maha Sawa) giành được ngôi vua. Sau khi vua Trà Hòa mất, Chế Bồng Nga được quần thần tôn làm kế vương. Kế nhiệm là La Ngai (Jaya Simhavarman VI).

Nhà Hán học người Pháp Georges Maspero trong cuốn La royaume de Champa (Vương quốc Champa) đã cho hay giai đoạn 1360-1390 dưới triều Chế Bồng Nga là giai đoạn cực thịnh trong lịch sử Champa. Các sử gia người Việt như Ngô Sĩ Liên cũng phải thừa nhận tài năng của Chế Bồng Nga là một vị vua kiệt xuất, có tài võ bị, trong thời gian cầm quyền đã đe dọa sự tồn vong của Đại Việt, bốn lần tiến vào Thăng Long và ông đã chấn hưng nhà nước Champa từ quốc gia suy đồi trở nên hùng mạnh.

Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một trang hùng sử. Trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi phục những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh bị mất năm 1069; châu Ô, châu Rí năm 1306

Chế Bồng Nga chết, quân Chiêm Thành sau đó phải rút về nước và không còn dám đánh Đại Việt nữa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

nothing10

Yếu sinh lý
"hế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một trang hùng sử. Trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi phục những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh bị mất năm 1069; châu Ô, châu Rí năm 1306" vn mất 1.000 còn lấy lại được nước, chăm pa mất 300 năm vẫn lấy lại đất đã mất, chứng tỏ không gì là không thể nhé. chỉ là mình có sống tới đó để chứng kiến không mà thôi.
 

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
"hế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một trang hùng sử. Trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi phục những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh bị mất năm 1069; châu Ô, châu Rí năm 1306" vn mất 1.000 còn lấy lại được nước, chăm pa mất 300 năm vẫn lấy lại đất đã mất, chứng tỏ không gì là không thể nhé. chỉ là mình có sống tới đó để chứng kiến không mà thôi.
Chămpa độc lập được 1.800 năm thì vong quốc
Việt Nam ta độc lập được 1.050 năm e là ko được như nó
 

nothing10

Yếu sinh lý
Đúng rồi học được cuốn Võ Mục Di Thư cầm binh của tướng nhà Tống. Giấu trong cái đồ long đao và ỷ thiên kiếm
thì khi cướp được phải chia điều cho lính lác nó mới theo mình và huy sinh hết mình mới lập quốc được, lập xong đem chém hết mấy thằng đó đi chứ ko sau này chết trước tụi nó sẽ lộng hành.
 

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
thì khi cướp được phải chia điều cho lính lác nó mới theo mình và huy sinh hết mình mới lập quốc được, lập xong đem chém hết mấy thằng đó đi chứ ko sau này chết trước tụi nó sẽ lộng hành.
Nhưng sau thì con thứ ổng cũng lộng hành đó thôi
Haha
 

atlas01

Tiến sĩ
Nội bộ nhà Trần rối loạn, hoàng tử Trần Phủ lật đổ Dương Nhật Lễ (tên khác là Trần Nhật Kiên) rồi lên ngôi vua, niên hiệu là Nghệ Tông.

Mẹ của Nhật Lễ trốn sang nước Chiêm nhờ Chế Bồng Nga tiến đánh nhà Trần nhằm trả thù. Chế Bồng Nga cho quân theo đường thủy đánh cửa Đại An, quân Trần đại bại, quân Chiêm tiến thẳng vào Thăng Long rất dễ dàng. Cuốn “Việt Nam sử lược” mô tả quân Chiêm chiếm Thăng Long như “như đi vào chỗ không người”. Vua Nghệ Tông phải trốn khỏi kinh thành.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 2.

Quân Chiêm tấn công Thăng Long. (Tranh từ Pháp Luật VN)

Quân Chiêm tha hồ cướp bóc vơ vét kinh thành, đốt cung điện, sách vở.


Dưới thời nhà Trần, Chiêm Thành từng phải thần phục và cống nạp cho Đại Việt. Thế nhưng khi vua Chiêm là Chế Bồng Nga lên ngôi, nhà Trần bắt đầu suy yếu, Chế Bồng Nga nhiều lần đưa quân tiến đánh khiến nhà Trần phải thảm bại tháo chạy khỏi thành Thăng Long. Các sử sách còn mô tả rằng quân Chiêm vào Thăng Long như chỗ không người, vua tôi nhà Trần đều sợ quân Chiêm như sợ cọp.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 1.

Triều đình Chiêm Thành. Ảnh cắt từ clip.

Sau khi lên ngôi Vua, Chế Bồng Nga nhận thấy nhà Trần không còn hùng mạnh như trước nữa. Nguyên nhân chính là vì các vua Trần đời sau nhu nhược, mất mùa liên miên, sức sản xuất của người dân suy giảm, vua quan ham mê tửu sắc, đánh sưu cao thuế nặng, sống xa hoa trên sự đói khổ của người dân... Vì thế thời điểm này xã hội dưới thời nhà Trần rất bất ổn.

Năm 1361, Chế Bồng Nga đưa quân theo đường biển đánh cửa biển Dĩ Lý (Quảng Bình ngày nay), quân nhà Trần thua chạy, quân Chiêm cướp phá tàn sát dân chúng rồi quay trở về. Sau đó quân Chiêm nhiều lần quấy phá nơi biên giới.

Năm 1368, vua Trần Dụ Tông quyết định đưa quân đánh Chiêm Thành, nhưng khi đến vùng Chiêm Động (Quảng Nam ngày nay) thì bị trúng kế rơi vào trận phục kích của quân Chiêm và đại bại. Tướng chỉ huy là Trần Thế Hưng bị bắt, tàn quân phải rút chạy về nước
Khi vua nhà Minh là Chu Nguyên Chương xuống chiếu bắt 2 nước không được gây chiến, quân Chiêm mới rút về nước mang theo nhiều báu vật cướp được.

"Ngày mồng 1 tháng Chạp năm Hồng Vũ thứ 2 [30/12/1369]: Sai Hàn lâm Viện Biên tu La Phục Nhân, Chủ sự Bộ binh Trương Phúc mang chiếu thư dụ An Nam [11] và Chiêm Thành rằng:

“Trẫm vốn xuất thân từ bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được thần dân tôn lên làm vua trị thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly, rồi Chiêm Thành; tất cả đều dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến Trẫm rất vui lòng.

Mới đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô đến cống, tâu rằng An Nam mang binh đến xâm nhiễu, Trẫm xem tờ trình tâm không được yên. Nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã định sẵn, đó là ý trời không thể cậy mạnh mà làm càn. Huống đất đai các ngươi, cách Trung Quốc hết núi đến biển, lời nói về sự xâm nhiễu nhất thời khó mà biết được để trình bày rõ ràng cho Trẫm hay. Các ngươi được truyền đời nối đời đã lâu, việc giữ đất an dân, trên phụng theo đạo trời, tôn kính Trung Quốc; những việc này Vương trước của các ngươi chắc đã để lại lời dạy bảo, không đợi Trẫm dụ mới biết. Trẫm làm chủ thiên hạ, việc đáng làm là trị loạn dẹp nguy; nay sai sứ đi quan sát sự việc, hiểu dụ các ngươi phải sợ trời, thủ phận. Nếu như cả hai dùng binh, năm này qua năm khác không ngừng, làm độc hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh sẽ không bằng lòng; e rằng trên thì trời ghét, dưới thì lòng dân oán hận, mối họa sẽ không tránh được. Vương hai nước hãy nghe lời Trẫm, tuân theo đạo lý, yên phận mình, để con cháu các ngươi được hưởng phúc lâu bền, há lại không tốt đẹp hơn ư! Khi chiếu thư tới, hai nước hãy tuân mệnh bãi binh.” (Minh Thực lục v. 3, q. 47, t. 0934-0935)"

Tình trạng quân Champa quấy phá tại Đại Việt khá trầm trọng và lâu dài, đến nỗi bọn Sứ thần nhà Minh mượn đường nước ta đi sứ Miến Điện [Myanma], phải kẹt lại đến 2 năm trời:



Năm 1376, Chế Bồng Nga xem nhà Minh như cái đinh rỉ, lại đưa quân bắc tiến, vua Trần Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đưa quân đi đánh (lúc này vua Trần Nghệ Tông đã lên ngôi Thượng Hoàng). Chế Bồng Nga cho người dâng 10 mâm vàng xin giảng hòa, thế nhưng Đỗ Tử Bình dấu vàng rồi tâu về triều là Vua Chiêm ngạo mạn không thần phục. Vua Trần nổi giận, tháng 1/1077 liền đưa quân nam tiến.

Vua Trần đích thân đưa quân theo đường biển tiến đến cửa Thi Nại (Quy Nhơn) đánh chiếm đồn Thạch Kiều, rồi đưa quân tiến đến kinh thành Đồ Bàn của nước Chiêm.

Chế Bồng Nga cho người chạy sang nhà Trần trá hàng, rồi tung tin là Chế Bồng Nga đã rút quân chủ lực khỏi kinh thành rồi. Vua Trần mắc mưu liền cho quân ung dung tiến vào thành thì bất ngờ bị phục binh quân Chiêm bốn bề đổ ra tiến đánh, quân Trần bị chia cắt và đại bại, 10 phần thì chết 7,8 phần. Vua Trần bị vây khốn trúng phải tên mà tử trận. Quân Chiêm đuổi quân nhà Trần đến tận vùng Thanh – Nghệ.

Tháng 6/1378, Chế Bồng Nga đưa quân vượt sông Đại Hoàng đánh tan quân của Đỗ Tử Bình, rồi đưa quân đánh chiếm Thăng Long. Thượng Hoàng Nghệ Tông lại phải chạy khỏi Thăng Long, đem vàng bạc châu báu dấu ở núi Thiên Kiến và động Khả Lăng.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 3.

Thành Đồ Bàn. (Ảnh từ Youtube).

Năm 1380, Chế Bồng Nga tuyển binh ở Tân Bình và Thuận Hóa, rồi sau đó đem quân đánh chiếm Nghệ An. Hồ Quý Ly và Đỗ Tử Bình đưa quân chặn lại. Chế Bồng Nga phải dừng tiến quân nhưng châu Nghệ An, Thuận Hóa, Tân Bình vẫn thuộc về người Chăm.

Năm 1383, Chế Bồng Nga lại đưa quân bắc phạt chiếm giữ kinh thành Thăng Long. Lê Quý Đôn mô tả rằng: “vua (Chế Bồng Nga) ra vào Việt Nam như đi vào chỗ không người, chỉ trong mấy năm đến phá kinh đô 3 lần, làm cho vua tôi phải kinh hoàng” .

Quân Chiêm nhiều lần chiếm kinh thành Thăng Long, cướp báu vật rồi đem cống nạp cho nhà Minh, vì thế mà vua Minh cho Chiêm Thành đánh Đại Việt không có ý kiến gì.

Năm 1386, quân Minh thông báo sẽ đem quân giúp Đại Việt đánh Chiêm Thành, và yêu cầu Đại Việt chuẩn bị các trạm lương thực suốt từ biên giới với Vân Nam đến Nghệ An, cùng 100 thớt voi. Tuy nhiên nhà Trần đã từ chối vì e rằng quân Minh nhân cơ hội này sẽ thôn tính mẹ nó Đại Việt luôn!

Năm 1389, Chế Bồng Nga lại cho quân tiến đánh nhà Trần, thượng hoàng Nghệ Tông sai Hồ Qúy Ly đưa quân giao chiến với quân Chiêm.

Chế Bồng Nga ở thượng nguồn sông Lương, cho đắp đập ngăn sông phía thượng lưu, cho đóng cọc dày, bố trí tượng binh và bộ binh mai phục, rồi vờ rút quân đi.

Giai đoạn nào, Chiêm Thành vào Thăng Long như chốn không người? - Ảnh 4.

Thành Thăng Long. (Ảnh từ quehuongonline.vn).

Hồ Quý Ly tưởng quân Chiêm rút lui liền đem quân truy kích, nào ngờ bị trúng phải trận địa mai phục của quân Chiêm. Chế Bồng Nga cho phá đập nước khiến quân Trần bị thiệt hại nặng nề, nhiều tướng bị bắt sống hoặc tử trận. Hồ Quý Ly để một số tướng ở lại cầm cự còn thì rút về kinh thành. Tuy nhiên quân Trần ở lại cũng không cầm cự được và phải rút lui, Chế Bồng Nga đuổi theo đến Hoàng Giang.

Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai đô tướng là Trần Khát Chân đưa quân ngăn quân Chiêm. Trần Khát Chân đến sông Hoàng Giang nhưng nhận thấy nơi đây không đóng quân được nên đưa quân đến sông Hải Triều.

Tháng 1/1390, Chế Bồng Nga đưa hơn 100 chiến thuyền thị sát sông Hải Triều. Không may cho Chế Bồng Nga, một tùy tướng của ông ta là Bỉ Lậu Kê vì sợ phạt tội nên ra hàng Trần Khát Chân, đồng thời báo cho biết thuyền ngự của vua Chiêm sơn màu xanh lục.

Trần Khát Chân liền cho các hỏa pháo tập trung vào thuyền Vua Chiêm mà bắn, Chế Bồng Nga bị trúng đạn mà chết.

Sử gia Ngô Thì Sĩ mô tả rằng khi tướng Phạm Như Lạt đưa đầu của Chế Bồng Nga đến trình báo thượng hoàng Trần Nghệ Tông vào giữa canh ba, Nghệ Tông hoảng hồn tưởng mình đang bị vây bắt. Nghe tin thắng trận Nghệ Tông nửa tin nửa ngờ liền cho triệu tập các quan để xem cho kỹ. Các quan mặc triều phục, đến và hô “vạn tuế!”, lúc này Nghệ Tông mới yên tâm mà nói: “Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi!”.
Chế Bồng Nga - Cei Bunga (1360- 23/1/1390), Jaya R'Cam B'nga (Zainal Abidin là vị vua Islam - Hồi giáo) theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trong tài liệu Trung Hoa ngài có tên: Ngo-ta-Ngo-che là tên hiệu của vua thứ ba thuộc vương triều thứ 12 Vijaya.

Chế Bồng Nga là con trai út của vua Chế A Nan (Jaya Ananda). Sau khi Chế A Nan qua đời, con rể là Trà Hòa (Maha Sawa) giành được ngôi vua. Sau khi vua Trà Hòa mất, Chế Bồng Nga được quần thần tôn làm kế vương. Kế nhiệm là La Ngai (Jaya Simhavarman VI).

Nhà Hán học người Pháp Georges Maspero trong cuốn La royaume de Champa (Vương quốc Champa) đã cho hay giai đoạn 1360-1390 dưới triều Chế Bồng Nga là giai đoạn cực thịnh trong lịch sử Champa. Các sử gia người Việt như Ngô Sĩ Liên cũng phải thừa nhận tài năng của Chế Bồng Nga là một vị vua kiệt xuất, có tài võ bị, trong thời gian cầm quyền đã đe dọa sự tồn vong của Đại Việt, bốn lần tiến vào Thăng Long và ông đã chấn hưng nhà nước Champa từ quốc gia suy đồi trở nên hùng mạnh.

Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một trang hùng sử. Trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi phục những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh bị mất năm 1069; châu Ô, châu Rí năm 1306

Chế Bồng Nga chết, quân Chiêm Thành sau đó phải rút về nước và không còn dám đánh Đại Việt nữa.
Ai nói chế bồng nga xem Minh là đinh rỉ?
 
Bên trên